DJC

Đã đánh giá tài liệu

Cảm ơn bạn đã phản hồi

Bài 8.4: Cách để sẵn lòng cho đi sự giàu có của bản thân

| 2196 lượt xem | Thư viện số 100 năm


 
 

Welcome to English Club - Thư viện 100 năm “Thân Tâm Tuệ” của DJC! Tặng Bạn giải pháp Học tiếng Anh kết hợp với Mô hình Phát triển bản thân - DJ Model giúp Nâng cao năng lực:
  1. Nghe Nói Đọc Viết & Dịch tiếng Anh.

  2. Thuyết trình thông qua Modeling “Học theo video mẫu”.

  3. Khai phóng nội lực để Thịnh vượng, Bình An & Hạnh phúc. 

Để tự học hiệu quả, tham khảo các bước sau:

  1. Chọn bài có nội dung phù hợp.

  2. Xem bản dịch song song khi nghe bài học.

  3. Chuẩn bị sổ note lại nội dung ý nghĩa.

Giới thiệu:

  • Đối tượng: Học sinh, sinh viên và người đi làm mong muốn phát triển bản thân.

  • Tác giả: Celeste Headlee - Nhà báo phát thanh người Mỹ, tác giả, diễn giả trước công chúng và là người đồng dẫn chương trình hàng tuần Retro Report trên PBS.

  • Cộng tác viên dịch: Nguyễn Thị Dạ Thảo

  • DJ Model: #Bánh xe cuộc đời #Bộ kỹ năng #Sự nghiệp #Người cân bằng

WHY GIVING AWAY OUR WEALTH HAS BEEN THE MOST SATISFYING THING WE’VE EVER DONE

CÁCH ĐỂ SẴN LÒNG CHO ĐI SỰ GIÀU CÓ CỦA BẢN THÂN

Chris Anderson: So, this is an interview with a difference. On the basis that a picture is worth a thousand words, what I did was, I asked Bill and Melinda to dig out from their archive some images that would help explain some of what they've done, and do a few things that way. So, we're going to start here. Melinda, when and where was this, and who is that handsome man next to you? 


Chris Anderson: Buổi phỏng vấn này sẽ có hơi khác một chút. Dựa trên tiêu chí là trăm nghe không bằng một thấy, tôi đã nhờ Bill và Melinda đào bới trong kho lưu trữ của họ vài tấm ảnh có thể giúp giải thích một số điều mà họ đã làm, và làm một số thứ theo cách đó. Thế chúng ta sẽ bắt đầu từ đây. Melinda, tấm này chụp khi nào và ở đâu, và anh chàng đẹp trai đứng cạnh cô là ai thế?


Melinda Gates: With those big glasses, huh? This is in Africa, our very first trip, the first time either of us had ever been to Africa, in the fall of 1993. We were already engaged to be married. We married a few months later, and this was the trip where we really went to see the animals and to see the savanna. It was incredible. Bill had never taken that much time off from work. But what really touched us, actually, were the people, and the extreme poverty. We started asking ourselves questions. Does it have to be like this? And at the end of the trip, we went out to Zanzibar, and took some time to walk on the beach, which is something we had done a lot while we were dating. And we'd already been talking about during that time that the wealth that had come from Microsoft would be given back to society, but it was really on that beach walk that we started to talk about, well, what might we do and how might we go about it?


Melinda Gates: Với cặp kính to ấy hả? Đây là ở châu Phi, chuyến đi đầu tiên của chúng tôi, lần đầu tiên chúng tôi từng đến châu Phi, vào mùa thu năm 1993. Khi đó chúng tôi đã đính hôn và sắp cưới. Vài tháng sau chúng tôi kết hôn, và đây là chuyến đi để chúng tôi thực sự quan sát động vật và xavan. Thật sự tuyệt vời. Bill chưa từng nghỉ làm lâu tới vậy. Những điều thực sự khiến chúng tôi cảm động là con người, và sự nghèo khó kinh khủng. Chúng tôi bắt đầu tự hỏi mình. Mọi chuyện có cần phải thế này không? Và vào cuối chuyến đi, chúng tôi đến Zanzibar, và dành chút thời gian để đi dạo trên bãi biển, là điều mà chúng tôi đã làm rất nhiều hồi còn hẹn hò. Và chúng ta vốn đã nói chuyện rất nhiều trong thời gian đó, rằng tài sản có được từ Microsoft sẽ được trả lại cho xã hội, nhưng chỉ từ chuyến đi dạo trên bãi biển đó chúng tôi mới thực sự bắt đầu nói về, ừm, chúng tôi sẽ làm gì và làm bằng cách nào?


CA: So, given that this vacation led to the creation of the world's biggest private foundation, it's pretty expensive as vacations go. 


CA: Vậy, vì chuyến du lịch này đã sinh ra một trong những tổ chức tư nhân lớn nhất thế giới, tôi đoán đây là một chuyến du lịch khá đắt giá đấy nhỉ.


MG: I guess so. We enjoyed it.


MG: Tôi đoán vậy. Chúng tôi đã rất vui.


CA: Which of you was the key instigator here, or was it sym


CA: Ai trong hai người là người khởi xướng, hay cả hai đều đồng thuận?metrical?


Bill Gates: Well, I think we were excited that there'd be a phase of our life where we'd get to work together and figure out how to give this money back. At this stage, we were talking about the poorest, and could you have a big impact on them? Were there things that weren't being done? There was a lot we didn't know. Our naïveté is pretty incredible, when we look back on it. But we had a certain enthusiasm that that would be the phase, the post-Microsoft phase would be our philanthropy.


Bill Gates: Chà, tôi đoán khi đó chúng tôi vui vì đã có một giai đoạn trong đời mà chúng tôi có thể làm việc cùng nhau và tìm cách trả lại số tiền này. Trong giai đoạn này, chúng tôi nói về những người nghèo nhất, và rằng chúng ta có thể gây ảnh hưởng lớn tới họ không? Có điều gì vẫn chưa được làm không? Có rất nhiều thứ mà chúng tôi không biết. Giờ nhìn lại thì chúng tôi khá là khờ dại. Nhưng chúng tôi có niềm háo hức rằng đây sẽ là giai đoạn đúng, thời đại sau Microsoft sẽ là lúc chúng tôi làm từ thiện.


MG: Which Bill always thought was going to come after he was 60, so he hasn't quite hit 60 yet, so some things change along the way.


MG: Bill luôn nghĩ lúc đó sẽ tới sau khi anh ấy 60 tuổi cơ, nhưng giờ anh ấy vẫn chưa tròn 60, nên đã có vài điều thay đổi trong quá trình rồi.


CA: So it started there, but it got accelerated. So that was '93, and it was '97, really, before the foundation itself started.


CA: Vậy là mọi chuyện bắt đầu ở đó, nhưng có bước nhảy vọt lên. Khi đó là năm 1993, và tới năm 1997, đó là bước ngoặt trước khi bản thân tổ chức được thành lập.

MG: Yeah, in '97, we read an article about diarrheal diseases killing so many kids around the world, and we kept saying to ourselves, “Well that can't be. In the U.S., you just go down to the drug store.” And so we started gathering scientists and started learning about population, learning about vaccines, learning about what had worked and what had failed, and that's really when we got going, was in late 1998, 1999.


MG: Phải, năm 1997, chúng tôi đọc một bài báo về việc bệnh tiêu chảy giết chết rất nhiều trẻ em trên thế giới, và chúng tôi cứ tự nói với bản thân: “Không thể thế được. Ở Mỹ chúng ta chỉ cần tới nhà thuốc thôi mà.” Thế là chúng tôi bắt đầu tập hợp các nhà khoa học và bắt đầu học về dân số, học về vắc xin, học về điều gì đã thành công và điều gì đã thất bại, và đó mới thực sự là lúc chúng tôi khởi hành, vào cuối những năm 1998, 1999.

CA: So, you've got a big pot of money and a world full of so many different issues. How on Earth do you decide what to focus on?


CA: Vậy là hai người có cả đống tiền và một thế giới với quá nhiều vấn đề khác nhau. Thế làm sao hai người quyết định được nên tập trung vào cái gì?

BG: Well, we decided that we'd pick two causes, whatever the biggest inequity was globally, and there we looked at children dying, children not having enough nutrition to ever develop, and countries that were really stuck, because with that level of death, and parents would have so many kids that they'd get huge population growth, and that the kids were so sick that they really couldn't be educated and lift themselves up. So that was our global thing, and then in the U.S., both of us have had amazing educations, and we saw that as the way that the U.S. could live up to its promise of equal opportunity is by having a phenomenal education system, and the more we learned, the more we realized we're not really fulfilling that promise. And so we picked those two things, and everything the foundation does is focused there.


BG: Chúng tôi quyết định là sẽ chọn hai vấn đề, bất kể đó là vấn đề bất bình đẳng gì lớn nhất trên thế giới, rồi chúng tôi nhìn vào trẻ em đang phải chết, trẻ em không đủ dinh dưỡng để phát triển, và các quốc gia gặp khó khăn vì tỷ lệ tử quá cao, và các cặp bố mẹ có nhiều con đến nỗi họ sẽ làm tăng dân số đáng kể, và lũ trẻ thì ốm yếu đến nỗi chúng không thể được giáo dục để tự đứng lên được. Vậy đó là vấn đề toàn cầu, và ở Mỹ thì cả hai chúng tôi đều được giáo dục chu đáo, và chúng tôi thấy cách để nước Mĩ có thể làm đúng theo lời hứa bình đẳng mọi cơ hội là phải có được một hệ thống giáo dục tuyệt vời, rồi chúng tôi càng tìm hiểu thì càng nhận ra chúng tôi vẫn chưa thực sự thực hiện được lời hứa đó. Thế là chúng tôi đã chọn hai điều đó, và mọi thứ mà tổ chức này làm đều chú tâm vào chúng.


CA: So, I asked each of you to pick an image that you like that illustrates your work, and Melinda, this is what you picked. What's this about?


CA: Tôi đã nhờ mỗi người các bạn chọn một tấm hình mình thích và minh hoạ được công việc của mình. Melinda, cô đã chọn tấm ảnh này. Nó nói về gì vậy?


MG: So I, one of the things I love to do when I travel is to go out to the rural areas and talk to the women, whether it's Bangladesh, India, lots of countries in Africa, and I go in as a Western woman without a name. I don't tell them who I am. Pair of khakis. And I kept hearing from women, over and over and over, the more I traveled, “I want to be able to use this shot.” I would be there to talk to them about childhood vaccines, and they would bring the conversation around to “But what about the shot I get?” which is an injection they were getting called Depo-Provera, which is a contraceptive. And I would come back and talk to global health experts, and they'd say, “Oh no, contraceptives are stocked in in the developing world.” Well, you had to dig deeper into the reports, and this is what the team came to me with, which is, to have the number one thing that women tell you in Africa they want to use stocked out more than 200 days a year explains why women were saying to me, “I walked 10 kilometers without my husband knowing it, and I got to the clinic, and there was nothing there.” And so condoms were stocked in Africa because of all the AIDS work that the U.S. and others supported. But women will tell you over and over again, “I can't negotiate a condom with my husband. I'm either suggesting he has AIDS or I have AIDS, and I need that tool because then I can space the births of my children, and I can feed them and have a chance of educating them.” 


MG: Một trong những điều mà tôi thích làm khi du lịch là đến những vùng quê và nói chuyện với phụ nữ ở đó, dù là Bangladesh, Ấn Độ, hay nhiều nước khác tại châu Phi, và tôi đến đó với tư cách một phụ nữ phương Tây không tên. Tôi không bảo họ mình là ai. Chỉ mặc quần kaki. Và tôi càng du lịch thì càng nghe những phụ nữ ấy nói rằng: “Tôi muốn có thể tiêm mũi này”. Tôi sẽ ở đó và nói với họ về tiêm vắc xin cho trẻ nhỏ, và họ sẽ hướng cuộc trò chuyện này tới việc “Nhưng còn mũi tiêm cho tôi thì sao?”, đó là việc họ được tiêm loại thuốc Depo-Provera, một loại thuốc tránh thai. Và tôi sẽ quay lại và nói chuyện với các chuyên gia y tế toàn cầu, và họ sẽ đáp: “Ồ không, thuốc tránh thai chỉ luôn sẵn hàng ở các nước phát triển.” Thế là bạn phải tìm hiểu kỹ hơn về các báo cáo, và cả nhóm đã cho tôi biết điều này, đó là, việc thứ mà phụ nữ ở châu Phi bảo với bạn là họ muốn dùng nhất lại luôn hết hàng trong 200 ngày 1 năm đã giải thích tại sao các phụ nữ lại bảo với tôi rằng: “Tôi giấu chồng và đi hơn 10 cây số, và tôi đến được trung tâm y tế, nhưng chẳng có gì ở đó.” Vậy, ở châu Phi vẫn luôn có sẵn bao cao su nhờ vào các công cuộc chống AIDS mà nước Mỹ và nước khác đã ủng hộ. Nhưng các phụ nữ vẫn sẽ nhắc đi nhắc lại với bạn rằng: “Tôi không thuyết phục chồng dùng bao được. Tôi toàn đề xuất hoặc là anh ấy bị AIDS hoặc là tôi bị AIDS, và tôi cần mũi tiêm đó vì như vậy tôi có thể giãn cách việc sinh con ra, và tôi có thể cho chúng ăn và có cơ hội giáo dục chúng.”


CA: Melinda, you're Roman Catholic, and you've often been embroiled in controversy over this issue, and on the abortion question, on both sides, really. How do you navigate that?


CA: Melinda, cô là người đạo Công giáo, và cô thường bị thêu dệt vào các tranh cãi về vấn đề này, và cả về chuyện tránh thai nữa, ở cả hai bên luôn, thật đấy. Cô đối mặt như thế nào?


MG: Yeah, so I think that's a really important point, which is, we have backed away from contraceptives as a global community. We knew that 210 million women were saying they wanted access to contraceptives, even the contraceptives we have here in the United States, and we weren't providing them because of the political controversy in our country, and to me that was just a crime, and I kept looking around trying to find the person that would get this back on the global stage, and I finally realized I just had to do it. And even though I'm Catholic, I believe in contraceptives just like most of the Catholic women in the United States who report using contraceptives, and I shouldn't let that controversy be the thing that holds us back. We used to have consensus in the United States around contraceptives, and so we got back to that global consensus, and actually raised 2.6 billion dollars around exactly this issue for women. 


MG: Phải, tôi nghĩ đó là một vấn đề rất quan trọng, đó là chúng ta đã lùi bước khỏi việc tránh thai cho toàn cầu. Chúng ta biết 210 triệu phụ nữ nói rằng họ muốn được mua thuốc tránh thai, cả những loại thuốc tránh thai mà chúng ta đang có ở nước Mỹ này, vậy mà chúng ta lại không cung cấp cho họ vì những tranh cãi chính trị tại nước chúng ta, và với tôi thì đó thật là một tội ác, và tôi cứ cố nhìn quanh để tìm được người có thể khiến điều này trở lại thành vấn đề toàn cầu, và cuối cùng tôi nhận ra chính mình phải làm thế. Mặc dù tôi là người Công giáo, tôi cũng tin vào thuốc tránh thai như hầu hết phụ nữ Công giáo tại Mỹ, những người bảo rằng họ có dùng thuốc tránh thai, và tôi không nên để sự tranh cãi đó cản bước chúng ta. Cả nước Mĩ chúng ta từng đoàn kết về vấn đề tránh thai, thế là chúng tôi quay lại với việc đoàn kết toàn cầu, và thực ra đã quyên góp được 2.6 tỉ đô la xoay quanh chính vấn đề này đối với phụ nữ.


CA: Bill, this is your graph. What's this about?


CA: Bill, đây là biểu đồ của anh. Nó nói về gì?


BG: Well, my graph has numbers on it. I really like this graph. This is the number of children who die before the age of five every year. And what you find is really a phenomenal success story which is not widely known, that we are making incredible progress. We go from 20 million not long after I was born to now we're down to about six million. So this is a story largely of vaccines. Smallpox was killing a couple million kids a year. That was eradicated, so that got down to zero. Measles was killing a couple million a year. That's down to a few hundred thousand. Anyway, this is a chart where you want to get that number to continue, and it's going to be possible, using the science of new vaccines, getting the vaccines out to kids. We can actually accelerate the progress. The last decade, that number has dropped faster than ever in history, and so I just love the fact that you can say, okay, if we can invent new vaccines, we can get them out there, use the very latest understanding of these things, and get the delivery right, that we can perform a miracle.


BG: Biểu đồ của tôi có các con số. Tôi rất thích biểu đồ này. Đây là số trẻ em chết trước khi lên 5 tuổi hằng năm. Và điều mà anh phát hiện được chính là một câu chuyện thành công lớn mà không nhiều người biết, rằng chúng tôi đã có tiến triển rất tốt đẹp. Chúng ta đi từ 20 triệu, không lâu sau khi tôi mới sinh, và tới bây giờ đã giảm xuống được chỉ còn 6 triệu trẻ em. Câu chuyện này chủ yếu liên quan tới vắc xin. Bệnh đậu mùa đã giết chết vài triệu trẻ em mỗi năm. Nhưng nó đã bị xoá sổ, nên con số chết vì nó là 0.  Bệnh sởi cũng giết hàng triệu trẻ em một năm. Giờ đã giảm xuống còn vài trăm ngàn. Nói chung, đây là một biểu đồ nơi bạn muốn con số đó tiếp tục giảm, và sẽ khả thi nếu dùng khoa học về các loại vắc xin mới, đưa vắc xin đến chỗ bọn trẻ. Thực ra chúng ta có thể đẩy nhanh quá trình. Trong thập kỷ vừa qua, con số đó đã giảm nhanh hơn bao giờ hết trong lịch sử, và tôi thực sự yêu việc bạn có thể nói là, được, nếu chúng ta có thể tạo ra vắc xin mới, thì ta có thể ra mắt chúng rộng rãi, dùng những kiến thức mới nhất về mấy thứ này, và vận chuyển đúng cách, và chúng ta sẽ tạo ra một phép màu.


CA: I mean, you do the math on this, and it works out, I think, literally to thousands of kids' lives saved every day compared to the prior year. It's not reported. An airliner with 200-plus deaths is a far, far bigger story than that. Does that drive you crazy? 


CA: Ý tôi là, nếu anh tính toán thì tôi nghĩ việc này đã thành công, hàng ngàn đứa trẻ đã được cứu mạng mỗi ngày so với năm trước. Nhưng chuyện này không được báo cáo. Một hãng hàng không với hơn 200 cái chết lại là vấn đề lớn, lớn hơn thế. Điều đó không làm anh bực sao?


BG: Yeah, because it's a silent thing going on. It's a kid, one kid at a time. Ninety-eight percent of this has nothing to do with natural disasters, and yet, people's charity, when they see a natural disaster, are wonderful. It's incredible how people think, okay, that could be me, and the money flows. These causes have been a bit invisible. Now that the Millennium Development Goals and various things are getting out there, we are seeing some increased generosity, so the goal is to get this well below a million, which should be possible in our lifetime.


BG: Phải, bởi vì đây là một điều thầm lặng. Chỉ là mỗi lần một đứa trẻ thôi. Gần như những chuyện này không hề dính tới các thiên tai, nhưng lòng trắc ẩn của mọi người bỗng trở nên vĩ đại hơn nhiều trước một vụ thiên tai. Thật đáng ngạc nhiên khi ai cũng nghĩ chuyện này có thể sẽ xảy ra với chính họ, và thế là họ quyên góp rất nhiều tiền. Các nguyên nhân này có hơi vô hình một chút. Nhưng giờ khi Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và nhiều thứ khác đang lan rộng ngoài kia, thì chúng tôi thấy sự hào phóng của mọi người đang tăng lên, nên mục tiêu là phải cho số liệu này xuống chỉ còn dưới 1 triệu, rất có thể sẽ khả thi trong thời đại của chúng ta.

CA: Maybe it needed someone who is turned on by numbers and graphs rather than just the big, sad face to get engaged. I mean, you've used it in your letter this year, you used basically this argument to say that aid, contrary to the current meme that aid is kind of worthless and broken, that actually it has been effective.


CA: Có lẽ anh cần một người bị thúc đẩy bởi số liệu và biểu đồ hơn là chỉ bởi những khuôn mặt buồn bã để có thể liên kết. Ý tôi là, anh đã đề cập đến nó trong lá thư anh gửi năm nay, dùng chính quan điểm này để nói rằng việc giúp đỡ thực ra hiện đang khá hiệu quả, không như điều mà mọi người nghĩ hiện tại là việc giúp đỡ có phần vô dụng và không tốt.


BG: Yeah, well people can take, there is some aid that was well-meaning and didn't go well. There's some venture capital investments that were well-meaning and didn't go well. You shouldn't just say, okay, because of that, because we don't have a perfect record, this is a bad endeavor. You should look at, what was your goal? How are you trying to uplift nutrition and survival and literacy so these countries can take care of themselves, and say wow, this is going well, and be smarter. We can spend aid smarter. It is not all a panacea. We can do better than venture capital, I think, including big hits like this.


BG: Mọi người nói không sai hoàn toàn, có vài việc giúp đỡ có ý tốt nhưng không đi tới đâu. Có vài người đã đầu tư mạo hiểm với ý tốt nhưng không đi tới đâu. Có điều bạn không thể vì vậy mà nói, rồi, chỉ vì chuyện đó, chỉ vì chúng ta không có kỷ lục hoàn hảo, nên đây là một nỗ lực vô ích. Bạn nên nhìn xem, mục tiêu của bạn là gì? Bạn đang làm cách nào để tăng nguồn dinh dưỡng và mức sống và trình độ học vấn để các nước này có thể chăm sóc cho bản thân, và nói rằng, chà, mọi chuyện đang tiến triển tốt, nên hãy thông minh hơn nữa đi. Chúng ta có thể giúp đỡ thông minh hơn. Không phải tất cả đều là phép màu. Tôi nghĩ chúng ta có thể làm gì đó tốt hơn đầu tư mạo hiểm, nhất là với những vấn đề lớn thế này.


CA: Traditional wisdom is that it's pretty hard for married couples to work together. How have you guys managed it?


CA: Người ta thường bảo vợ chồng thì rất khó làm việc với nhau. Hai người đã xử lý điều đó như thế nào?


MG: Yeah, I've had a lot of women say to me, “I really don't think I could work with my husband. That just wouldn't work out.” You know, we enjoy it, and we don't – this foundation has been a coming to for both of us in its continuous learning journey, and we don't travel together as much for the foundation, actually, as we used to when Bill was working at Microsoft. We have more trips where we're traveling separately, but I always know when I come home, Bill's going to be interested in what I learned, whether it's about women or girls or something new about the vaccine delivery chain, or this person that is a great leader. He's going to listen and be really interested. And he knows when he comes home, even if it's to talk about the speech he did or the data or what he's learned, I'm really interested, and I think we have a really collaborative relationship. But we don't spend every minute together, that's for sure.


MG: Phải, từng có nhiều phụ nữ nói với tôi: “Tôi thực sự không nghĩ tôi làm việc được với chồng tôi. Không thể hợp được.” Anh biết đấy, chúng tôi có thích và không thích – tổ chức này đã là khởi đầu cho cả hai chúng tôi trên chuyến hành trình học hỏi liên tục này, và thực ra chúng tôi không du lịch cùng nhau vì tổ chức nhiều như hồi chúng tôi đã từng khi Bill vẫn còn làm cho Microsoft. Chúng tôi di chuyển riêng biệt nhiều hơn, nhưng tôi luôn biết khi tôi về nhà, Bill sẽ có hứng thú với những gì tôi đã học, dù là về phụ nữ hay trẻ em gái hay một điều gì mới về chuỗi cung ứng vắc xin này, hay người này là một nhà lãnh đạo giỏi. Anh ấy sẽ lắng nghe với hứng thú thật sự. Và anh ấy cũng biết khi anh ấy về nhà, dù là để nói về bài phát biểu anh ấy đã nói hay dữ liệu hay những gì anh ấy học được, tôi sẽ hứng thú, và tôi nghĩ chúng tôi có một mối quan hệ cộng tác rất tốt. Nhưng chúng tôi không bám nhau như sam, tất nhiên.


CA: But now you are, and we're very happy that you are. Melinda, early on, you were basically largely running the show. Six years ago, I guess, Bill came on full time, so moved from Microsoft and became full time. That must have been hard, adjusting to that. No?


CA: Nhưng giờ hai người đã luôn bên nhau, và chúng tôi rất mừng vì điều đó. Melinda, ngày trước thì hầu như chỉ mình cô điều hành. 6 năm trước, tôi đoán vậy, Bill làm việc toàn thời gian, chuyển từ Microsoft về làm việc toàn thời gian. Chắc làm quen với điều đó hơi khó nhỉ?


MG: Yeah. I think actually, for the foundation employees, there was way more angst for them than there was for me about Bill coming. I was actually really excited. I mean, Bill made this decision even obviously before it got announced in 2006, and it was really his decision, but again, it was a beach vacation where we were walking on the beach and he was starting to think of this idea. And for me, the excitement of Bill putting his brain and his heart against these huge global problems, these inequities, to me that was exciting. Yes, the foundation employees had angst about that.


MG: Ừm. Thực ra tôi nghĩ với các nhân viên tổ chức thì họ còn thấy buồn hơn tôi khi Bill đến đây. Thực ra tôi thì rất hào hứng. Ý tôi là Bill rõ ràng đã ra quyết định này kể cả trước khi nó được công bố vào năm 2006, và đó thực sự là quyết định của anh ấy, nhưng một lần nữa, nơi anh ấy bắt đầu thực sự nghĩ ra ý tưởng này là tại chuyến du lịch biển, khi chúng tôi đi dạo trên bờ biển. Và với tôi, sự hào hứng khi Bill dùng bộ não và trái tim của anh ấy để đối mặt với những vấn đề lớn toàn cầu này, những chuyện bất bình đẳng này, với tôi điều đó thật thú vị. Còn các nhân viên tổ chức thì buồn về điều đó.


CA: That's cool.

CA: Tuyệt đấy.


MG: But that went away within three months, once he was there.

MG: Nhưng cảm giác đó biến mất sau 3 tháng, một khi anh ấy đã ở đó.


BG: Including some of the employees.

BG: Cùng với một vài nhân viên nữa.


MG: That's what I said, the employees, it went away for them three months after you were there.

MG: Ý em là vậy đấy, các nhân viên, cảm giác đó trong họ biến mất trong vòng 3 tháng sau khi anh đã ở đó.

BG: No, I'm kidding.

BG: Không, anh đùa đấy.


MG: Oh, you mean, the employees didn't go away.

MG: Ồ, ý anh là các nhân viên đã không biến mất ư?


BG: A few of them did, but –

BG: Vài người trong số họ thì có, nhưng –


CA: So what do you guys argue about? Sunday, 11 o'clock, you're away from work, what comes up? What's the argument?


CA: Vậy hai người cãi nhau về chuyện gì? Chủ nhật, 11 giờ tối, hai người đi làm về, chuyện gì xảy ra? Cãi nhau về điều gì?


BG: Because we built this thing together from the beginning, it's this great partnership. I had that with Paul Allen in the early days of Microsoft. I had it with Steve Ballmer as Microsoft got bigger, and now Melinda, and in even stronger, equal ways, is the partner, so we talk a lot about which things should we give more to, which groups are working well? She's got a lot of insight. She'll sit down with the employees a lot. We'll take the different trips she described. So there's a lot of collaboration. I can't think of anything where one of us had a super strong opinion about one thing or another?


BG: Vì từ đầu chúng tôi đã xây dựng nơi này cùng nhau, chúng tôi có mối quan hệ cộng sự tốt. Tôi có nó với Paul Allen vào những ngày đầu của Microsoft. Tôi có nó với Steve Ballmer khi Microsoft lớn mạnh hơn, và giờ là Melinda, và theo một cách còn lớn mạnh và bình đẳng hơn, là cộng sự của tôi, nên chúng tôi nói về điều gì nên chú tâm nhiều hơn, nhóm nào đang làm việc tốt? Cô ấy có góc nhìn rất đa dạng. Cô ấy rất hay ngồi xuống nói chuyện với nhân viên. Chúng tôi sẽ đi những chuyến đi khác nhau mà cô ấy miêu tả. Nên chúng tôi hợp tác rất nhiều. Tôi không thể nghĩ về điều gì mà một trong hai chúng tôi có quan điểm mạnh hơn hẳn về bên này hay bên khác cả.


CA: How about you, Melinda, though? Can you? You never know.


CA: Nhưng cô thì sao, Melinda? Cô nghĩ ra được không? Cô sẽ không ngờ đâu.


MG: Well, here's the thing. We come at things from different angles, and I actually think that's really good. So Bill can look at the big data and say, “I want to act based on these global statistics.” For me, I come at it from intuition. I meet with lots of people on the ground and Bill's taught me to take that and read up to the global data and see if they match, and I think what I've taught him is to take that data and meet with people on the ground to understand, can you actually deliver that vaccine? Can you get a woman to accept those polio drops in her child's mouth? Because delivering peace is every bit as important as science. So I think it's been more a coming-together over time towards each other's point of view, and quite frankly, the work is better because of it.


MG: Vấn đề là đây. Chúng tôi tiếp cận vấn đề từ các góc độ khác nhau, và thực ra tôi nghĩ đó là một điều rất tốt. Bill có thể nhìn vào dữ liệu lớn và nói: “Anh muốn hành động dựa trên những số liệu toàn cầu này.” Với tôi, tôi tiếp cận dựa trên cảm tính. Tôi đã gặp gỡ nhiều người ngoài đời và Bill đã dạy tôi hãy lấy dữ liệu đó so với dữ liệu toàn cầu để xem chúng có khớp nhau không, và tôi nghĩ điều tôi đã dạy anh ấy là hãy lấy dữ liệu đó và so với người ngoài đời để hiểu được, liệu anh có thực sự cung ứng được loại vắc xin đó không? Liệu anh có thể khiến một người phụ nữ chấp nhận nhỏ những giọt thuốc bại liệt vào miệng con của cô ấy không? Vì việc chuyển tới cũng quan trọng như việc chế tạo ra vậy. Nên tôi nghĩ chúng tôi ngày càng hiểu được góc nhìn của nhau thì đúng hơn, và nói thật thì nhờ vậy nên làm việc hiệu quả hơn nhiều.


CA: So, in vaccines and polio and so forth, you've had some amazing successes. What about failure, though? Can you talk about a failure and maybe what you've learned from it?


CA: Vậy, trong vắc xin và bại liệt và v.v., hai người đã có nhiều thành công tuyệt vời. Nhưng còn thất bại? Hai người có thể kể về một thất bại và có thể là hai người đã học được gì từ đó không?


BG: Yeah. Fortunately, we can afford a few failures, because we've certainly had them. We do a lot of drug work or vaccine work that you know you're going to have different failures. Like, we put out, one that got a lot of publicity was asking for a better condom. Well, we got hundreds of ideas. Maybe a few of those will work out. We were very naïve, certainly I was, about a drug for a disease in India, visceral leishmaniasis, that I thought, once I got this drug, we can just go wipe out the disease. Well, it turns out it took an injection every day for 10 days. It took three more years to get it than we expected, and then there was no way it was going to get out there. Fortunately, we found out that if you go kill the sand flies, you probably can have success there, but we spent five years, you could say wasted five years, and about 60 million, on a path that turned out to have very modest benefits when we got there.


BG: Được. May là chúng tôi có thể thất bại vài lần, vì chắc chắn chúng tôi đã thất bại rồi. Chúng tôi nghiên cứu thuốc và vắc xin rất nhiều nên cũng biết là sẽ có thất bại khác nhau. Có lần chúng tôi phải bỏ dở một dự án có tiếng vang vì họ cần bao cao su tốt hơn. Chúng tôi có hàng trăm ý tưởng. Có thể vài cái trong số đó sẽ thành công. Chúng tôi, hay chắc chắn là tôi, đã rất ngây thơ về một loại thuốc trị một loại bệnh tại Ấn Độ, bệnh leishmaniasis nội tạng, mà tôi nghĩ có loại thuốc này là đẩy lùi được bệnh ngay. Nhưng hoá ra phải tiêm thuốc mỗi ngày trong 10 ngày. Phải mất 3 năm để có được nó, nhiều hơn chúng tôi dự đoán, và rồi không thể nào phân bố nó ra ngoài kia được. May thay, chúng tôi phát hiện ra nếu giết ruồi cát thì có thể sẽ thành công ở đó, nhưng chúng tôi đã dành 5 năm, anh có thể nói là lãng phí 5 năm, và tầm 60 triệu, cho một con đường mà khi đến nơi thì hầu như chả có mấy lợi ích.


CA: You're spending, like, a billion dollars a year in education, I think, something like that. Is anything, the story of what's gone right there is quite a long and complex one. Are there any failures that you can talk about? 


CA: Hai người đã dành cỡ, tôi nghĩ là cả tỉ đô mỗi năm cho việc giáo dục, chắc vậy. Tôi nghĩ việc lãng phí điều gì ở đó sẽ còn dài và phức tạp hơn cơ. Hai người có thất bại gì muốn nói đến không?


MG: Well, I would say a huge lesson for us out of the early work is we thought that these small schools were the answer, and small schools definitely help. They bring down the dropout rate. They have less violence and crime in those schools. But the thing that we learned from that work, and what turned out to be the fundamental key, is a great teacher in front of the classroom. If you don't have an effective teacher in the front of the classroom, I don't care how big or small the building is, you're not going to change the trajectory of whether that student will be ready for college.


MG: Chà, tôi nghĩ một bài học lớn cho chúng tôi khi vừa bắt đầu là chúng tôi nghĩ những trường học nhỏ chính là câu trả lời, và trường học nhỏ đúng là đã giúp ích. Chúng làm giảm tỉ lệ bỏ học. Ở những trường đó thì tỉ lệ bạo lực và tội phạm ít hơn. Nhưng điều mà chúng tôi đã học từ việc đó, và cuối cùng lại là điều quan trọng nhất, chính là phải có giáo viên tốt trong lớp. Nếu không có giáo viên giỏi đứng trước bục giảng, thì tôi không quan tâm trường đó nhỏ hay lớn, bạn sẽ không thể thay đổi quỹ đạo hay việc học sinh đó đã sẵn sàng cho việc học đại học hay chưa đâu.


CA: So Melinda, this is you and your eldest daughter, Jenn. And just taken about three weeks ago, I think, three or four weeks ago. Where was this?

CA: Vậy, Melinda, đây là cô và con gái lớn của cô, Jenn. Tấm này mới chỉ chụp 3 tuần trước, tôi nghĩ vậy, tầm 3 – 4 tuần trước. Đây là ở đâu vậy?


MG: So we went to Tanzania. Jenn's been to Tanzania. All our kids have been to Africa quite a bit, actually. And we did something very different, which is, we decided to go spend two nights and three days with a family. Anna and Sanare are the parents. They invited us to come and stay in their boma. Actually, the goats had been there, I think, living in that particular little hut on their little compound before we got there. And we stayed with their family, and we really, really learned what life is like in rural Tanzania. And the difference between just going and visiting for half a day or three quarters of a day versus staying overnight was profound, and so let me just give you one explanation of that. They had six children, and as I talked to Anna in the kitchen, we cooked for about five hours in the cooking hut that day, and as I talked to her, she had absolutely planned and spaced with her husband the births of their children. It was a very loving relationship. This was a Maasai warrior and his wife, but they had decided to get married, they clearly had respect and love in the relationship. Their children, their six children, the two in the middle were twins, 13, a boy, and a girl named Grace. And when we'd go out to chop wood and do all the things that Grace and her mother would do, Grace was not a child, she was an adolescent, but she wasn't an adult. She was very, very shy. So she kept wanting to talk to me and Jenn. We kept trying to engage her, but she was shy. And at night, though, when all the lights went out in rural Tanzania, and there was no moon that night, the first night, and no stars, and Jenn came out of our hut with her REI little headlamp on, Grace went immediately, and got the translator, came straight up to my Jenn and said, “When you go home, can I have your headlamp so I can study at night?”


MG: Chúng tôi đến Tanzania. Jenn đã đến Tanzania rồi. Thực ra tất cả các con tôi đều đã đến châu Phi nhiều lần. Và chúng tôi đã làm một điều rất khác biệt, đó là quyết định dành 3 ngày 2 đêm với một gia đình. Anna và Sanare là cặp bố mẹ. Họ mời chúng tôi đến ở tại chuồng thú của họ. Thực ra, tôi đoán bọn dê đã sống trong túp lều nhỏ đó thành một bầy nhỏ trước khi chúng tôi đến đó. Và chúng tôi ở với gia đình họ, và thực sự hiểu được cuộc sống ở nông thôn Tanzania là thế nào. Sự khác biệt giữa việc chỉ đến đó thăm nửa ngày hoặc 3/4 ngày so với việc ở lại qua đêm là rất rõ rệt, để tôi cho bạn một lời giải thích cho việc đó nhé. Họ có 6 người con, và khi tôi nói chuyện với Anna trong bếp, chúng tôi đã nấu ăn trong lều nấu ăn được 5 tiếng vào hôm đó, và khi tôi nói chuyện với cô ấy, cô ấy hoàn toàn đã lên kế hoạch và cùng chồng mình sinh con cách xa nhau hơn. Đó là một mối quan hệ rất tình cảm. Đây là một chiến binh tộc Maasai và vợ của anh ấy, nhưng họ đã quyết định kết hôn, và rõ ràng họ tôn trọng và yêu thương nhau trong mối quan hệ này. Con của họ, 6 đứa con của họ, 2 đứa ở giữa là sinh đôi, 13 tuổi, một bé trai, và một bé gái tên Grace. Rồi khi chúng tôi ra ngoài chặt gỗ và làm mọi thứ Grace và mẹ con bé sẽ làm, Grace không phải trẻ con, con bé đã dậy thì, nhưng nó cũng không phải người lớn. Con bé rất, rất nhút nhát. Nó luôn muốn nói chuyện với tôi và Jenn. Chúng tôi luôn cố động viên nó, nhưng nó ngại. Nhưng vào ban đêm, khi toàn bộ đèn tại vùng quê Tanzania đã tắt, và đêm đó không có trăng, đêm đầu tiên, và không có sao, rồi Jenn ra khỏi túp lều chúng tôi ở với cái đèn pha REI nhỏ trên đầu, Grace liền đi gọi người thông dịch và lại thẳng chỗ con bé Jenn nhà tôi và nói: “Khi chị về nhà, chị cho em xin cái đèn đội đầu đó để tối em học được không?”



CA: Oh, wow.

CA: Ái chà.


MG: And her dad had told me how afraid he was that unlike the son, who had passed his secondary exams, because of her chores, she'd not done so well and wasn't in the government school yet. He said, “I don't know how I'm going to pay for her education. I can't pay for private school, and she may end up on this farm like my wife.” So they know the difference that an education can make in a huge, profound way.


MG: Và bố con bé kể rằng anh ấy rất sợ rằng không như đứa con trai đã đậu kỳ thi lên cấp 3, vì phải lao động, con bé học không tốt lắm và chưa được vào trường công lập. Anh ấy bảo: “Tôi không biết phải trả học phí cho con bé thế nào. Tôi không trả nổi tiền trường tư, và sợ con bé sẽ phải ở trên trang trại này như vợ tôi mất.” Vậy là họ cũng biết giáo dục có thể đem lại một sự khác biệt rất lớn và đáng kinh ngạc.


CA: I mean, this is another pic of your other two kids, Rory and Phoebe, along with Paul Farmer. Bringing up three children when you're the world's richest family seems like a social experiment without much prior art. How have you managed it? What's been your approach?


CA: Tôi thấy đây là một tấm ảnh nữa của hai đứa con còn lại của hai người, Rory và Phoebe, cùng với Paul Farmer. Nuôi 3 đứa con khi là gia đình giàu nhất thế giới có vẻ là một cuộc thí nghiệm xã hội khi chưa có nhiều kinh nghiệm trước đó. Hai người đã làm thế nào? Cách tiếp cận của hai người là gì?


BG: Well, I'd say overall the kids get a great education, but you've got to make sure they have a sense of their own ability and what they're going to go and do, and our philosophy has been to be very clear with them – most of the money's going to the foundation – and help them find something they're excited about. We want to strike a balance where they have the freedom to do anything but not a lot of money showered on them so they could go out and do nothing. And so far, they're fairly diligent, excited to pick their own direction.


BG: Nói chung, tôi nghĩ bọn trẻ đã được giáo dục rất tốt, nhưng cũng phải đảm bảo chúng nhận thức được khả năng của chính mình và chúng sẽ đi đâu, làm gì, và quy tắc của chúng tôi là luôn luôn rõ ràng với chúng – hầu hết số tiền sẽ đi vào tổ chức – và giúp chúng tìm một thứ mà chúng thấy có hứng thú. Chúng tôi muốn tạo ra một sự cân bằng nơi chúng có tự do làm mọi thứ nhưng không đổ lên đầu chúng quá nhiều tiền để chúng chỉ cần đi ra ngoài lười nhác. Và hiện thì chúng khá siêng năng, rất hào hứng muốn lựa chọn hướng đi của riêng mình.


CA: You've obviously guarded their privacy carefully for obvious reasons. I'm curious why you've given me permission to show this picture now here at TED.

CA: Hai người đã giữ riêng tư cho các con rất cẩn thận vì những lý do hiển nhiên. Tôi tự hỏi tại sao hai người lại cho phép tôi đăng bức ảnh này lên tại TED?


MG: Well, it's interesting. As they get older, they know that our family belief is about responsibility, that we are in an unbelievable situation just to live in the United States and have a great education, and we have a responsibility to give back to the world. And so as they get older and we are teaching them – they have been to so many countries around the world – they're saying, we do want people to know that we believe in what you're doing, Mom and Dad, and it is okay to show us more. So we have their permission to show this picture, and I think Paul Farmer is probably going to put it eventually in some of his work. But they really care deeply about the mission of the foundation, too.


MG: À, thú vị lắm. Khi chúng lớn lên, chúng cần biết rằng niềm tin của gia đình chúng tôi là về trách nhiệm, rằng chỉ việc chúng ta được sống tại Mĩ và được giáo dục đầy đủ cũng đã là một điều rất tốt rồi, và chúng ta có nghĩa vụ phải trả lại cho thế giới. Nên khi bọn trẻ lớn lên và chúng tôi dạy dỗ cho chúng – bọn trẻ đã đến rất nhiều nơi trên thế giới rồi – thì chúng nói, chúng con muốn mọi người biết rằng chúng con tin vào những gì bố mẹ đang làm, nên bố mẹ cứ cho họ xem hình chúng con thêm nữa. Thế là chúng tôi đã được bọn trẻ cho phép công khai bức ảnh này, và tôi nghĩ Paul Farmer rồi sẽ cho nó vào một trong những dự án của anh ấy. Nhưng bọn trẻ cũng thực sự rất quan tâm đến nhiệm vụ của tổ chức nữa.


CA: You've easily got enough money despite your vast contributions to the foundation to make them all billionaires. Is that your plan for them?


CA: Mặc dù đã đóng góp nhiều cho tổ chức, hai người vẫn có số tiền đủ nhiều để biến các con thành tỷ phú. Đó có phải là kế hoạch của hai người cho các con không?

BG: Nope. No. They won't have anything like that. They need to have a sense that their own work is meaningful and important. We read an article long, actually, before we got married, where Warren Buffett talked about that, and we're quite convinced that it wasn't a favor either to society or to the kids.


BG: Không. Chúng sẽ không làm gì như thế cả. Chúng cần nhận thức được rằng những gì chính chúng làm ra là ý nghĩa và rất quan trọng. Thực ra trước khi kết hôn chúng tôi đã đọc một bài báo mà Warren Buffett đề cập tới vấn đề đó, và chúng tôi tin để bọn trẻ ỷ lại thì không tốt cho cả xã hội lẫn chúng.


CA: Well, speaking of Warren Buffett, something really amazing happened in 2006, when somehow your only real rival for the richest person in America suddenly turned around and agreed to give 80 percent of his fortune to your foundation. How on Earth did that happen? I guess there's a long version and a short version of that. We've got time for the short version.


CA: Nói tới Warren Buffett thì một điều rất kỳ diệu đã xảy ra vào năm 2006, khi mà đối thủ duy nhất của anh cho vị trí người giàu nhất tại Mỹ đột nhiên lại đổi hướng và đồng ý cho tổ chức của anh 80% số tài sản của ông ấy. Làm thế nào mà chuyện đó xảy ra được? Tôi đoán có phiên bản dài và phiên bản ngắn cho câu chuyện đó. Chúng ta sẽ có thời gian nghe phiên bản ngắn.


BG: All right. Well, Warren was a close friend, and he was going to have his wife Suzie give it all away. Tragically, she passed away before he did, and he's big on delegation, and – he said –


BG: Được. Warren là một người bạn thân, và vốn ông ấy cũng định cho vợ mình là bà Suzie đem tặng hết tài sản đi. Tiếc thay, bà ấy đã mất trước ông, và ông rất giỏi điều hành, và – ông ấy đã nói – 


CA: Tweet that.

CA: Tôi sẽ ghi lại.


BG: If he's got somebody who is doing something well, and is willing to do it at no charge, maybe that's okay. But we were stunned.


BG: Nếu ông ấy biết ai đó đang làm điều gì đó tốt đẹp, và sẵn sàng làm mà không tính toán gì, thì có thể như vậy sẽ ổn. Nhưng chúng tôi rất kinh ngạc.

MG: Totally stunned.

MG: Thực sự kinh ngạc.


BG: We had never expected it, and it has been unbelievable. It's allowed us to increase our ambition in what the foundation can do quite dramatically. Half the resources we have come from Warren's mind-blowing generosity.


BG: Chúng tôi không ngờ tới điều đó, nên không thể tin được. Số tiền ấy đã cho phép chúng tôi tăng trưởng tham vọng về việc tổ chức có thể làm gì lên một tầm cao mới. Hơn một nửa số nguồn lực chúng tôi có là nhờ vào sự hào phóng khó tin của ông Warren.


CA: And I think you've pledged that by the time you're done, more than, or 95 percent of your wealth, will be given to the foundation. 


CA: Và tôi nghĩ anh đã hứa rằng vào thời gian anh nghỉ hưu, thì hơn 95% tài sản của anh sẽ được đưa đến cho tổ chức.


BG: Yes.

BG: Vâng


CA: And since this relationship, it's amazing – And recently, you and Warren have been going around trying to persuade other billionaires and successful people to pledge to give, what, more than half of their assets for philanthropy. How is that going?


CA: Và nhờ mối quan hệ này, nó thật tuyệt vời –Gần đây, anh và ông Warren đang đi thuyết phục các tỷ phú và những người thành công khác cam kết sẽ đưa, chà, hơn một nửa số tài sản của họ cho từ thiện. Điều đó đã tiến triển thế nào rồi?


BG: Well, we've got about 120 people who have now taken this pledge. The thing that's great is that we get together yearly and talk about, okay, do you hire staff, what do you give to them? We're not trying to homogenize it. I mean, the beauty of philanthropy is this mind-blowing diversity. People give to some things. We look and go, “Wow.” But that's great. That's the role of philanthropy is to pick different approaches, including even in one space, like education. We need more experimentation. But it's been wonderful, meeting those people, sharing their journey to philanthropy, how they involve their kids, where they're doing it differently, and it's been way more successful than we expected. Now it looks like it'll just keep growing in size in the years ahead.


BG: Hiện chúng tôi đã được 120 người cam kết sẽ cho đi. Điều tuyệt nhất ở đây là chúng tôi sẽ gặp nhau hằng năm và nói về việc, ờ, anh chị có thuê nhân viên không, anh chị cho họ thứ gì? Chúng tôi không cố đồng nhất mọi thứ. Ý tôi là cái đẹp của từ thiện là sự đa dạng đến khó tin. Mọi người cho đi vài thứ. Chúng ta nhìn và kêu “ái chà”. Nhưng điều đó rất tuyệt. Vai trò của từ hiện là việc chọn những giải pháp khác nhau, kể cả trong cùng một lĩnh vực, như giáo dục. Chúng ta cần thí nghiệm nhiều hơn. Nhưng đó là một điều rất tuyệt, gặp gỡ những người đó, chia sẻ hành trình từ thiện của họ, họ đã đưa con mình theo thế nào, họ làm điều đó có gì khác, và mọi chuyện thành công hơn chúng tôi mong đợi. Hiện tại, có vẻ như sẽ càng phát triển hơn trong những năm tiếp theo.


MG: And having people see that other people are making change with philanthropy, I mean, these are people who have created their own businesses, put their own ingenuity behind incredible ideas. If they put their ideas and their brain behind philanthropy, they can change the world. And they start to see others doing it, and saying, “Wow, I want to do that with my own money.” To me, that's the piece that's incredible.


MG: Và khi mọi người thấy người khác đang thay đổi bằng việc từ thiện, ý tôi là có những người tự thành lập công ty của mình, và dùng sự khéo léo của họ để nảy sinh ý tưởng tuyệt vời. Nếu họ dùng ý tưởng và bộ não của mình để làm từ thiện, họ sẽ thay đổi được thế giới. Và họ sẽ thấy mọi người làm thế, và nói rằng: “Chà, mình cũng muốn làm vậy với tiền của mình.” Với tôi thì đó là điều tuyệt vời ở đây.


CA: It seems to me, it's actually really hard for some people to figure out even how to remotely spend that much money on something else. There are probably some billionaires in the room and certainly some successful people. I'm curious, can you make the pitch? What's the pitch? 


CA: Với tôi thì có vẻ một số người lại thấy rất khó khăn để hiểu được việc dành số tiền đó vào một điều gì khác. Có thể có một số tỉ phú trong phòng này và chắc chắn là một vài người thành công khác. Tôi đang tò mò, anh chị có toại nguyện không? Sự toại nguyện của anh chị là thế nào?


BG: Well, it's the most fulfilling thing we've ever done, and you can't take it with you, and if it's not good for your kids, let's get together and brainstorm about what we can do. The world is a far better place because of the philanthropists of the past, and the U.S. tradition here, which is the strongest, is the envy of the world. And part of the reason I'm so optimistic is because I do think philanthropy is going to grow and take some of these things government's not just good at working on and discovering and shine some light in the right direction.


BG: Chà, đó là điều thoả mãn nhất mà chúng tôi làm, và ta không thể mang nó theo được, và nếu nó không tốt cho con bạn, ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc chúng ta có thể làm gì. Thế giới đã là một nơi tuyệt vời hơn nhờ những nhà hảo tâm trong quá khứ, và truyền thống của nước Mỹ, là nơi hùng mạnh nhất, chính là sự ghen tị của thế giới. Và một phần lý do tôi lạc quan đến thế là vì tôi nghĩ việc từ thiện sẽ phát triển và sẽ mang những điều mà chính quyền vẫn chưa làm được và tìm cách để đi đến đúng hướng.


CA: The world's got this terrible inequality, growing inequality problem that seems structural. It does seem to me that if more of your peers took the approach that you two have made, it would make a dent both in that problem and certainly in the perception of that problem. Is that a fair comment?


CA: Thế giới thực sự đang rất bất bình đẳng, vấn đề bất bình đẳng tăng lên và nghe có vẻ liên kết với nhau. Tôi cảm thấy nếu một trong những đối tác của hai người cùng thực hiện cách hai người đã làm, rất có thể sẽ ảnh hưởng đến cả vấn đề và cách nhìn nhận vấn đề một cách đáng kể. Tôi nói vậy đúng chứ?


BG: Oh yeah. If you take from the most wealthy and give to the least wealthy, it's good. It tries to balance out, and that's just.


BG: Ồ, phải. Nếu anh lấy của người giàu nhất và chia cho người nghèo nhất, đó là điều tốt. Anh đang cân bằng lại, như vậy là công bằng.


MG: But you change systems. In the U.S., we're trying to change the education system so it's just for everybody and it works for all students. That, to me, really changes the inequality balance.


MG: Nhưng ta phải thay đổi hệ thống. Tại Mỹ, chúng tôi đang cố thay đổi hệ thống giáo dục để mọi người đều được học và hiệu quả với mọi học sinh. Với tôi, điều đó sẽ thực sự thay đổi sự bất bình đẳng.

BG: That's the most important.

BG: Đó là điều quan trọng nhất.


CA: Well, I really think that most people here and many millions around the world are just in awe of the trajectory your lives have taken and the spectacular degree to which you have shaped the future. Thank you so much for coming to TED and for sharing with us and for all you do.


CA: Chà, tôi nghĩ hầu hết mọi người ở đây và hàng triệu người khác trên thế giới đều đang ngưỡng mộ những gì hai người đã làm trong đời và sức ảnh hưởng của hai người đến với tương lai. Cảm ơn hai người rất nhiều vì đã đến TED và chia sẻ với chúng tôi về những gì hai người đã làm.

BG: Thank you.


MG: Thank you.


BG: Thank you.


MG: Thank you very much.


BG: All right, good job. 


BG: Cảm ơn.


MG: Cảm ơn.


BG: Cảm ơn.


MG: Cảm ơn rất nhiều.


BG: Rồi, em làm tốt lắm.


Cảm ơn bạn đã thật chăm chỉ, nếu cần thêm tài liệu hãy nói với DJC. Bạn thấy đoạn dịch nào chưa phù hợp hãy comment ở phần bình luận, DJC rất hân hạnh được nghe góp ý của bạn. Nếu cần hỗ trợ hãy liên hệ với DJC và đừng quên tải App để xem tài liệu trên giao diện thân thiện hơn và sở hữu kho tri thức tinh hoa Việt.


iOS:         TẢI APP NGAY

Android:  TẢI APP NGAY